“Một số biện pháp giúp duy trì sĩ số trẻ 5-6 tuổi”
1.1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức kỹ năng, kỹ xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Đặc biệt là phổ cập giáo dục trẻ em 5 tuổi.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ về công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi: “Chăm lo các trẻ 5 tuổi bây giờ chính là cho tương lai đất nước sau gần nửa thế kỷ nữa. Nếu bây giờ không làm thì chúng ta sẽ có lỗi với thế hệ sau”.
Vì sao chúng ta lại chọn độ tuổi phổ cập là 5 tuổi? Vì độ tuổi này rất quan trọng bởi các em hình thành khả năng ngôn ngữ bước vào lớp 1. Ở vùng dân tộc, miền núi thì điều này không dễ dàng bởi các em ở nhà không nói tiếng Kinh nên khi bước vào lớp 1 học rất khó khăn. Chúng ta đã chứng kiến những em học trường phổ thông dân tộc nội trú, sau 10 năm học phổ thông mà tiếng Kinh vẫn không thạo bởi vì yếu ngay từ lớp 1, không được học mầm non…
Cho nên thứ nhất mầm non 5 tuổi tạo nền tảng ngôn ngữ cho các em và thứ 2 là thói quen sinh hoạt, học tập trong tập thể để học có hiệu quả cho nên chúng ta chọn phổ cập ở độ tuổi này. Bên cạnh đó, khi học ở 5 tuổi các em được bồi dưỡng về thể lực góp phần chống suy dinh dưỡng, trạng thái phát triển về khả năng suy nghĩ rất quan trọng. Theo thống kê của các nhà khoa học, đến hết 6 tuổi thì trên 50% khả năng trí tuệ của người lớn đã được hình thành cho nên chuẩn bị cho 5 tuổi là nền tảng suốt cuộc đời các em.
Việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường mầm non đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của trẻ nói riêng và trong việc thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Nó là nền tảng giúp trẻ lĩnh hội kỹ năng, kiến thức một cách đầy đủ và hình thành thói quen, nề nếp tốt cho trẻ bước vào lớp 1
Chính vì vậy mà việc duy trì sĩ số là vấn đề hết sức quan trọng trong giáo dục đào tạo đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục hiện nay. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp duy trì sĩ số trẻ 5-6 tuổi”
1.2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nhận thấy được tầm quan trọng của duy trì sĩ số trẻ 5-6 tuổi có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nề nếp và thói quen học tập tốt cho trẻ mầm non.
Đối tượng nghiên cứu thuộc lứa tuổi mẫu giáo lớn theo độ tuổi: 5-6 tuổi.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp cho các bậc phụ huynh có cái nhìn đúng đắn và hiểu được tầm quan trọng của bậc học mầm non. Từ đó, phối hợp cùng giáo viên có biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi hứng thú và đi học đều.
Để trẻ phát triển một cách tốt nhất về thể lực và sức khỏe. Đòi hỏi giáo viên cần có một kế hoạch cụ thể và đưa ra các phương pháp phù hợp để giúp trẻ phát triển một cách hài hòa và tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái khi đến trường. Vì vậy, tôi đưa ra “ Một số biện pháp giúp duy trì sỉ số trẻ 5-6 tuổi”
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên, mở đầu cho các bậc học tiếp theo. Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục mầm non là hình thành nhân cách cho trẻ và tạo tiền đề vững chắc cho trẻ bước vào lớp 1. Như vậy, việc chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ là vô cùng quan trọng, cần thiết trong quá trình đào tạo nhân cách con người giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Trẻ em hôm nay- Thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha anh. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, thương yêu và phát triển. Khi xã hội ngày càng phát triển thì giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và được đánh giá toàn diện. Vì một tương lai tươi sáng, trẻ em sẽ trở thành chủ nhân hữu ích của tương lai, thì ngay từ tuổi ấu thơ trẻ phải được hưởng nền giáo dục phù hợp và hiện đại.
Chính vì thế, một vấn đề quan trọng cần thiết nhất hiện nay không chỉ riêng tôi mà tất cả giáo viên cần phải biết làm sao để duy trì sĩ số lớp, trẻ đi học đều. Muốn vậy, thì mỗi giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng phải làm như thế nào? Bằng cách nào? Để có những biện pháp giúp duy trì sĩ số lớp, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần và nhằm thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục trẻ 5 tuổi.
Căn cứ theo quyết định số 239/QĐ-TTg Quyết định Thủ tướng Chính phủ ngày 09 tháng 02 năm 2010, Quyết định 264/ QĐ-UBND ngày 21 tháng 01 năm 2011của Ủy ban nhân dân Tỉnh, Quyết định số 657/QĐ-SGDĐT-GDMN ngày 15 tháng 08 năm 2012 của Sở giáo dục đào tạo Bình Dương, Công văn số 43/PGDĐT-MN ngày 11 tháng 12 năm 2012 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Dầu Tiếng, hướng dẫn Hồ sơ Công Nhận Phổ Cập Mầm Non cho trẻ 5 tuổi để có kế hoạch thực hiện phổ cập giáo dục.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường. Vì vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành hướng dẫn thực hiện “Dự án tăng cường khả năng đi học cho trẻ mầm non”.
2.2. Cơ sở thực tiễn:
Thấy được sự quan trọng của việc duy trì sĩ số lớp học. Tôi cố gắng tìm ra một số biện pháp giúp trẻ hứng thú, thích thú đi học. “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” theo những cách tốt nhất.
Nó đặt nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ mầm non và chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, một trong những lớp học đầu tiên giúp trẻ có một sức khỏe tốt và thể lực đầy đủ để có thể thích ứng cho việc học tập giúp trẻ tiếp thu một cách tốt nhất những kiến thức hỗ trợ và giúp ích cho tương lai sau này đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Mục tiêu mà giáo dục mầm non vươn tới đó là: Giúp trẻ phát triển đầy đủ 5 mặt về nhận thức, thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn. Trách nhiệm này đặt trên vai ngành giáo dục đòi hỏi ngành phải có những nội dung, chương trình phù hợp, đổi mới phương pháp dạy và học một cách tích cực “ Học đi đôi với hành” giúp trẻ không chỉ học một biết mười mà qua quá trình học tập trẻ có thể ứng dụng, trải nghiệm và phát triển về thể chất giúp trẻ thay đổi cách học tập, vận động một cách thụ động mà thay vào đó là quá trình học tập vận động , sáng tạo phù hợp với lối sống hiện đại năng động, tích cực giúp trẻ không chỉ phát triển đầy đủ vể kiến thức và còn nâng cao về tầm vóc và thể lực trong quá trình vận động sau này.
Để giúp cho giáo viên nắm vững nội dung yêu cầu và phương pháp phù hợp với chương trình chăm sóc nâng cao thể lực cho trẻ mầm non.
Tôi đã áp dụng những kinh nghiệm và sáng tạo trong việc giúp trẻ hứng thú và tạo nhiều môi trường thuận lợi để có thể duy trì sĩ số lớp và đảm bảo chuyên cần trẻ 5 tuổi. Điều này đòi hỏi giáo viên chúng tôi phải khéo léo trong việc tổ chức và tích hợp các hoạt động vui chơi, học tập, lao động một cách nhẹ nhàng, thoải mái, hợp lí, phù hợp và đầy đủ về các mặt tạo để thu hút trẻ cũng như sự an tâm, tin tưởng từ các bậc phụ huynh.
2.3. Thực trạng của vấn đề
Trong những năm gần đây, bậc học mầm non đưa ra chỉ tiêu huy động trẻ ra lớp ngày một cao, đây là chủ trương đúng đắn của ngành nhằm làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục và công tác phổ cập giáo dục, mà mục tiêu hàng đầu đặt ra là phải vận động trẻ ra lớp và duy trì sĩ số, vì thành công trong cuộc vận động trẻ ra lớp học và duy trì sỉ số lớp sẽ góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học của trường nói chung và của lớp nói riêng. Vì vậy vai trò, trách nhiệm của cô giáo mầm non cần phải nâng cao. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để tất cả các cháu được vui chơi và học tập trong trường mầm non, mẫu giáo với các bạn cùng lứa tuổi? Đó chính là mối quan tâm chung của toàn xã hội mà trong đó cô giáo mầm non là người giữ vai trò quan trọng.
* Thuận lợi :
- Ban giám hiệu luôn quan tâm sâu sát, khuyến khích giáo viên tạo môi
trường thân thiện – học sinh tích cực trong trường, lớp.
- Hàng tháng nhà trường có kế hoạch tổ chức dự giờ thao giảng giữa các giáo viên và dự giờ thao giảng các trường bạn để học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Được sự quan tâm, hỗ trợ nhiệt tình của các cấp lãnh đạo địa phương. Đặc biệt là lãnh đạo ấp An Thọ.
* Khó khăn :
- Trẻ còn thiếu tự tin, chưa thực sự mạnh dạn bày tỏ hết ý muốn, nguyện vọng, khả năng cũng như những hiểu biết của mình.
- Trẻ chưa thể hiện, diễn đạt được suy nghĩ, hiểu biết của mình một cách rõ ràng, mạch lạc.
- Sĩ số trẻ ít có 16 trẻ nên việc duy trì sĩ số trẻ và đảm bảo bảo tỉ lệ chuyên cần lại càng gặp khó khăn.
- Đặc thù của đơn vị phụ huynh 100% là công nhân cao su trực tiếp khai thác mủ nên thời điểm sau tết cao su rụng lá, công nhân tạm thời nghỉ cạo để trang bị phần cây phụ huynh cho cháu nghỉ học theo ra lô.
- Các phụ huynh chưa nhận thức và hiểu được tầm quan trọng của bậc học mầm non cũng như việc cho trẻ đi học đều nên khi giáo viên trò chuyện và trao đổi phụ huynh thờ ơ hoặc còn hời hợt.
- Một số trẻ chưa được học qua lớp mầm, chồi nên còn bỡ ngỡ, nhút nhát, chưa hình thành nề nếp, thói quen đi học.
- Diện tích và không gian sân trường, khu vui chơi còn nhiều hạn chế, chưa đủ không gian, địa điểm cho trẻ hoạt động và vui chơi chưa thực sự hiệu quả
- Cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi còn hạn chế, chưa có các phòng chức năng, chưa thật sự tạo cho trẻ không gian thoải mái, đáp ứng nhu cầu vui chơi của trẻ.
- Khả năng xây dựng kế hoạch và sự sáng tạo của một số giáo viên còn hạn chế. Chưa tích hợp được các chuyên đề vào làm phong phú các hoạt động để thu hút trẻ.
*Khảo sát trình độ khả năng của trẻ / lớp và nhu cầu, hứng thú thích được đến trường, lớp ở trẻ 5-6 tuổi:
PHIẾU KHẢO SÁT TRẺ Ở GIA ĐÌNH
Họ và tên trẻ :……………………………………..
Phụ huynh :…………………………………………
Nội dung |
Số trẻ/lớp |
Tỷ lệ |
- Trẻ có chủ động muốn đi học |
7/16 |
43.75% |
- Trẻ có thể hiện sự vui thích được đến trường, lớp với cô giáo, đồ chơi, bạn bè. |
9/16 |
56.25% |
- Trẻ chủ động, mạnh dạn hát, kể chuyện, đọc thơ mà cô dạy ở lớp cho ba mẹ nghe. |
7/16 |
43.75% |
- Ba, mẹ động viên và khuyến khích trẻ đi học đều. |
9/16 |
56.25% |
- Trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp |
6/16 |
37,5% |
- Sử dụng lời nói mạch lạc, diễn cảm |
6/16 |
37,5% |
- Hiểu và truyền đạt thông tin bằng nhiều cách khác nhau |
7/16 |
43.75% |
2.4. Biện pháp thực hiện :
*Biện pháp 1: Nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ để tạo niềm tin đối với phụ huynh.
Chất lượng chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ là cơ sở quan trọng để làm tốt công tác duy trì sĩ số lớp và tạo được niềm tin với phụ huynh cho nên tôi luôn chú trọng thực hiện tốt công tác nuôi dưỡng - chăm sóc - giáo dục trẻ.
Nhiệm vụ của giáo dục mầm non là hình thành cho trẻ những nhân cách
đầu tiên con người mới được cụ thể bằng các nội dung chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ. Chính vì vậy việc thực hiện đầy đủ chương trình không được bỏ
trống, thực hiện thường xuyên, nghiêm túc chương trình chăm sóc giáo dục trẻ chú trọng việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học lấy trẻ làm trung tâm và phát huy hết tính tích cực của trẻ, tạo môi trường phong phú, an toàn cho trẻ hoạt động. Giúp cho giáo viên luôn xây dựng cho mình một kỹ năng sư phạm tốt để thực hiện mục tiêu.
Phấn đấu thi đua, học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, đầu tư sáng tạo trong hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy để tiết học trở nên phong phú, thu hút trẻ hơn.
Phối hợp y tế cân đo, theo dõi biểu đồ tăng trưởng và khám sức khoẻ định kỳ cho 100% trẻ để kịp thời có những biện pháp giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, thừa cân, béo phì.
Hình 1. Trẻ được khám sức khỏe định kỳ
Chú trọng vào công tác tăng cường tiếng Việt, giúp trẻ có kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Việt rõ ràng, lưu loát, mạch lạc, tạo cho trẻ có đầy đủ vốn tiếng Việt để bước vào học lớp lớp 1 tiếp thu kiến thức dễ dàng, thuận lợi hơn.
Giáo viên chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong việc thiết kế các hình thức tổ chức dạy học sinh động, hấp dẫn, thu hút trẻ. Tích cực chú ý rèn luyện cho các cháu mạnh dạn, tự tin, thích hoạt động tập thể, thích giao lưu với bạn bè, từ đó các cháu thích được đi học hơn, tỷ lệ chuyên cần và tỷ lệ bé ngoan tăng cao hơn.
Nêu gương bé ngoan hằng ngày nhằm tạo sự phấn khởi, ham thích đi học của các cháu.
* Biện pháp 2: Phối hợp với phụ huynh.
Việc giáo dục trẻ là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội. Vì thế, việc giáo dục nói chung và giáo dục trẻ em nói riêng luôn luôn đòi hỏi có sự phối hợp, kết hợp giữa nhà trường và gia đình.
Thông qua các buổi họp phụ huynh, bảng tuyên truyền, giáo viên động viên, khuyến khích phụ huynh tích cực trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe thêm ở nhà. Đặc biệt là dành thời gian để lắng nghe trẻ nói lên nhu cầu, sở thích, tâm tư, nguyện vọng của trẻ và sửa những câu nói, cách nói sai của trẻ. Muốn vậy, khi trò chuyện với trẻ phụ huynh phải cố gắng phát âm đúng, nói rõ ràng, mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, trẻ sẽ bắt chước theo.
Hình 2. Tổ chức buổi họp phụ huynh
Khuyến khích phụ huynh nên lắng nghe trẻ, tạo cơ hội để trẻ được đặt câu hỏi, cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ, không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác, cần kiên nhẫn lắng nghe và trả lời những ý kiến thắc mắc của trẻ qua đó uốn nắn và sửa câu, cung cấp vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Trong lớp, khi dạy trẻ câu chuyện: “ Chàng Rùa”, giáo viên cần in nội dung câu chuyện và dán lên bảng tuyên truyền cho phụ huynh cùng xem và yêu cầu phụ huynh phối hợp kể thêm cho trẻ nghe ở nhà. Hoặc lắng nghe trẻ kể lại khi trẻ đã được nghe cô kể ở lớp. Sau đó, phụ huynh cùng trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện và có thể sửa cho trẻ cách nói sai, cấu trúc câu sai...
Kết hợp với phụ huynh qua nhiều hình thức như: Nhờ phụ huynh sưu tầm những sách báo cũ, lịch, họa báo, tạp chí, các nguyên liệu để trẻ tự làm sách để xây dựng góc thư viện, những câu chuyện gần gũi với trẻ. Hoặc mời phụ huynh đóng kịch cùng trẻ trong các ngày lễ hội lớn của trường.
Qua bảng thông báo hoặc qua góc “tuyên truyền cho phụ huynh” của nhà trường hoặc tại mỗi nhóm lớp: phụ huynh sẽ biết được những bài hát, bài thơ, câu chuyện trẻ được học ở lớp từ đó có thể củng cố lại kiến thức cho trẻ hoặc cung cấp thêm một số câu chuyện gần gũi, có liên quan khác, hoặc những nội dung mà gia đình cần phối hợp với cô giáo giúp trẻ cảm thấy tự tin hơn về những gì trẻ đã biết và có thể thể hiện bản thân.
* Biện pháp 3: Tổ chức các trò chơi cho trẻ chơi.
Trẻ sẽ hứng thú tham gia vào các hoạt động thông qua trò chơi. Trò chơi được thực hiện linh hoạt, xen kẽ trong hoạt động hay phần củng cố hoạt động.
Ví dụ: Chơi Hãy đọc (nói, kể) cùng tôi: Trò chơi này giúp trẻ tập trung chú ý, lắng nghe và phản xạ kịp thời để đọc (nói, kể) tiếp theo bạn. Như khi nói về con gà. Cô nói “Đây là con gà mái”, trẻ được cô chọn sẽ nói tiếp một câu tùy ý về con gà “ con gà mái đẻ trứng”. Sau đó trẻ này gọi tên bạn tiếp theo, bạn được chọn sẽ tiếp tục nói những câu khác về con gà, ai nói không kịp phải làm theo yêu cầu của bạn, làm động tác con gà. Có thể cho trẻ chơi đọc tiếp bài thơ hoặc kể tiếp câu chuyện quen thuộc.
Tổ chức các trò chơi hấp dẫn và luôn thay đổi theo chủ đề sẽ đem lại sự mới lạ, làm cho trẻ trở nên chủ động và hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động một cách thoải mái mà không bị ép buộc, thông qua trò chơi nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn.
Ngoài ra giáo viên còn có thể tổ chức cho trẻ chơi các rò chơi dân gian. Xét về góc độ giáo dục, trò chơi dân gian có thể chia thành bốn nhóm: Loại trò chơi vận động như: Tập tầm vông, dung dăng dung dẻ, lò cò, bịt mắt bắt dê… giúp tăng cường sức khỏe, thể chất cho học sinh; loại trò chơi học tập, điển hình là chơi cờ lá, cờ lật, chơi ô ăn quan giúp phát triển trí tuệ của trẻ em, dạy cho trẻ biết quan sát, tính toán; loại trò chơi sáng tạo là những trò chơi mà học sinh có thể tự làm nên những đồ vật bằng vật liệu trong thiên nhiên như làm chong chóng bằng lá dừa, nặn con trâu bằng đất sét, xếp lá dừa thành con châu chấu…
Những trò chơi này giúp trẻ khéo tay, phát huy sáng kiến, năng khiếu thẩm mỹ cần thiết cho hiện tại và cả tương lai sau này. Cuối cùng, loại trò chơi mô phỏng là những trò chơi mà trẻ bắt chước cách sinh hoạt của người lớn như làm nhà, nấu ăn, mua bán,… Trong khi chơi, trẻ thi nhau xem ai làm đúng, làm đẹp, làm nhanh hơn và thật sự hóa thân, nhập vai. Nhờ đó, trẻ học được cách ứng xử của người lớn để chuẩn bị làm người sau này,…
Hình 3. Trẻ tham gia vào trò chơi đóng vai thành bác sĩ khám bệnh
Ngoài ra còn có thể lồng ghép cho trẻ chơi các trò chơi luyện phát âm và phát triển vốn từ Tiếng Việt khác để tránh nhàm chán như:
+ Luyện giọng làm ca sĩ: Trò chơi này mục đích để luyện giọng và luyện phát âm cơ bản, đơn giản.
Cách chơi: Cô và trẻ ngồi hoặc đứng, trẻ luyện giọng theo cô “À a á a à..., ồ ô ố ô ồ...., là la lá la là..., mì mi mí mi mì..., lì li lí li lì.... Hoặc Ba bô bê bu bư, na nô nê nu nư...
+ Đố con gì? (Củng cố cách sử dụng từ chính xác cho trẻ)
Cách chơi: cô nói “cô đố, cô đố”. Trẻ “đố gì, đố gì ?”. Cô đố con gì kêu (cô giả tiếng kêu) hoặc cô có thể thay bằng các nội dụng khác như: đố con gì biết nhảy, bơi, bay, bò... Cô tổ chức hai đội thi đua với nhau, mỗi lần trẻ nói được một từ đúng cô thưởng cho trẻ 1 bông hoa. Cuối cùng cô cùng trẻ đếm số hoa của mỗi đội, đội nào nhiều hoa hơn sẽ chiến thắng.
* Biện pháp 4: Tạo sự hấp dẫn, tình huống bất ngờ, hứng thú, sáng tạo và ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để thu hút trẻ:
Do đặc điểm của lứa tuổi nên giáo dục trẻ lứa tuổi mẫu giáo cần tiến hành theo phương châm “Học mà chơi, chơi mà học” theo chương trình đổi mới hình thức dạy học.
Yếu tố bất ngờ luôn cuốn hút trí tò mò của trẻ. Khi trẻ tìm hiểu về một đề tài, trẻ sẽ có nhu cầu muốn được cô giáo giải đáp bằng những câu hỏi về đề tài đó. Lúc đó trẻ sẽ không còn nhút nhát và dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Những đề tài trẻ quan tâm bao giờ cũng thu hút được sự chú ý và hứng thú, kích thích về lời nói của trẻ.
Ví dụ: Cô tạo tình huống “trời tối”!. Trẻ giả vờ ngủ, cô mặc đồ bác gấu đến từ giấc mơ của các bạn, tặng cho lớp những món quà ( những bức tranh).
“Trời sáng rồi !” Trẻ thức dậy, chào bác gấu và cùng mở quà ra xem, đàm thoại và kể chuyện theo tranh về chủ đề “Những con vật sống trong rừng”.
Với những tình huống bất ngờ, ứng dụng công nghệ thông tin khi tổ chức các hoạt động, kích thích hứng thú của trẻ, tự do suy nghĩ, nhận xét về đề tài, khi không hiểu trẻ sẽ chủ động nói lên những thắc mắc của mình. Từ đó, cô gợi ý, trẻ trả lời. Cứ như vậy, trẻ sẽ tích cực tham gia hoạt động cùng cô và các bạn một cách hứng thú mà không hề bị áp đặt, nhàm chán.
Hình 4. Ứng dụng CNTT trong tiết học nhằm thu hút trẻ
Ví dụ: Đề tài “Đàm thoại về các con vật sống trong rừng”
Cho trẻ xem đoạn phim, tiếng kêu của các con vật sống trong rừng như: voi, hổ, chim....
Hình ảnh kèm theo đoạn âm thanh sẽ lôi cuốn, thu hút trẻ và tạo cho trẻ sự tích cực hứng thú, hình thành ở trẻ những biểu tượng đầy đủ về các con vật sống trong rừng. Từ đó, trẻ sẽ tích cực tham gia trao đổi, trả lời các câu hỏi của cô.
Cô có thể sáng tạo một số câu chuyện sau đó tiến hành làm tranh kể chuyện theo hình ảnh nội dung đơn giản, phù hợp với chủ đề và cuộc sống của trẻ để giúp trẻ phát huy tư duy, khả năng sáng tạo theo trí tưởng tượng của trẻ. Những hình ảnh sưu tầm sách, báo và cho trẻ cắt dán theo yêu cầu giáo viên.
Trong một giờ học, cô nên tuyên dương ở lớp kịp thời những trẻ chú ý học tập, hăng hái phát biểu ý kiến, đóng kịch tốt để khuyến khích trẻ học tốt hơn. Tuyệt đối không chê trẻ, nhẹ nhàng sửa sai đối với những trẻ thực hiện chưa đúng. Việc dạy học phụ thuộc vào việc giáo dục. Do đó nội dung các bài dạy không chỉ đơn thuần là một nội dung cần dạy cho trẻ, mà còn là một phương tiện giáo dục. Vì vậy, cô phải luôn quan sát và nhận xét xem trong quá trình học tập trẻ có hoạt động
không? Tìm hiểu nguyên nhân vì sao trẻ chưa được tự tin, hòa đồng cùng các bạn để cô có hướng đưa trẻ hoà nhập với bạn bè.
Ví dụ: Trong chủ đề “Bản thân” cô làm bức tranh theo nội dung câu chuyện như sau:
Buổi sáng được mẹ đưa đến
Bướm thấy rất nhiều bạn cùng đi học. Đến lớp bướm hoa chào
Cô khen bướm hoa rất ngoan, đi học đều,
biết lễ phép chào cô.
Rất vui khi được cô khen…………..
Từ đó trẻ sẽ kể theo với sự kết hợp giữa hình và chữ. Cô nhận thấy trẻ rất thích và hứng thú.
Trong một giờ học cô nên tuyên dương ở lớp kịp thời những trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi, nói lên suy nghĩ của mình, biểu cảm trong lời nói... để khuyến khích trẻ học tốt hơn. Tuyệt đối không chê trẻ, nhẹ nhàng sửa sai đối với những trẻ thực hiện chưa đúng. Việc dạy học phụ thuộc vào việc giáo dục. Do đó nội dung các bài dạy không chỉ đơn thuần là một nội dung cần dạy cho trẻ, mà còn là một phương tiện giáo dục. Vì vậy, cô phải luôn quan sát và nhận xét xem trong quá trình học tập trẻ có hoạt động không? Trẻ có tích cực tham gia vào hoạt động không?
*Biện pháp 5: Tổ chức các ngày hội, ngày lễ cho trẻ
Qua các buổi sinh hoạt ngày hội, ngày lễ của trường cô cùng trẻ tham gia các tiết mục văn nghệ. Tôi đã mạnh dạn đăng ký cho trẻ tham gia những tiết mục hoạt cảnh, đọc thơ, đóng kịch. Trong các ngày lễ này có mời đông đảo phụ huynh của lớp tham dự. Nhận thấy nhiều phụ huynh rất phấn khởi về những vai diễn con mình thể hiện trong hoạt cảnh, đọc những bài thơ ngộ nghĩnh, đáng yêu. Trẻ rất hào hứng, mạnh dạn, tự tin tham gia vào hoạt động, thích được
biểu diễn và say mê khi biểu diễn.
Hình 5. Trẻ tham gia vào các tiết mục văn nghệ.
Với những ngày lễ hội không thể tổ chức ở trường như: Ngày Quân Đội Nhân Dân Việt Nam 22/12, Ngày quốc tế phụ nữ 8/3…thì các giáo viên thường tổ chức tại lớp, thường thì cho trẻ đọc thơ, hát múa các bài hát nội dung có liên quan đến đề tài hoặc là kể chuyện về những chú bộ đội ngoài đảo xa…Qua những hoạt động này nhằm giúp trẻ biết được những ngày lễ hội trong năm, giúp thêm yêu thương, quý mến các chú bộ đội,…
Qua việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ học. Lớp tôi trẻ rất tự tin, mạnh dạn khi giao tiếp, thích trò chuyện cùng người lớn và đặc biệt rất hứng thú tham gia vào tất cả các hoạt động.
Hình 6. Phụ huynh và trẻ cùng tham gia vào trò chơi viết, trang trí câu đối ngày tết.
*Biện pháp 6: Tăng cường làm đồ dùng và đồ chơi đảm bảo các tiêu chí đa năng, bền, đẹp và sáng tạo phục vụ cho các hoạt động và đáp ứng nhu cầu vui chơi cho trẻ:
Đồ chơi là người bạn không thể thiếu trong các trò chơi của trẻ và là nguồn vui của trẻ thơ, là những phương tiện trẻ dùng để vui chơi, là những đồ vật cụ thể giúp trẻ cầm, nắm dễ dàng…giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh, làm quen với những đặc điểm, tính chất của nhiều đồ vật khác nhau, biết được công dụng của chúng trong sinh hoạt và trong lao động của con người, còn là phương tiện giúp trẻ phát hiện ra những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội và dần dần biết gia nhập vào những mối quan hệ đó. Đồ chơi còn có tác dụng thúc đẩy, hình thành và phát triển các chức năng tâm lý, góp phần hình thành nhân cách ở trẻ trong đó việc phát triển tình cảm thẩm mỹ rất quan trọng.
Hình 7. Đồ dùng đồ chơi tự tạo
Từ những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương, các cô có thể suy nghĩ và sáng tạo, tìm tòi để tạo ra sản phẩm đẹp mắt thu hút trẻ. Sản phẩm phải đảm bảo tính giáo dục, an toàn, độ bền, tạo hứng thú cho các em trong giờ học.
Giáo viên luôn thay đổi đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề nhằm tạo cho trẻ sự hứng thú trong học tập cũng như trong vui chơi. Nhu cầu về đồ chơi cho trẻ là thiết thực và vô tận, tuy chúng ta không có khả năng mua đồ chơi cho trẻ, nhưng chúng ta biết đáp ứng nhu cầu chơi với đồ chơi của trẻ bằng cách tự làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ từ những nguyên vật liệu thiên nhiên: cát, sỏi, lá cây, vỏ cây…; từ phế thải như: vỏ đồ hợp, bao thuốc lá, hộp sữa, vải vụn, mút xốp…, chẳng hạn làm ghế đá bằng xốp, làm tàu hỏa bằng những hộp sữa tươi…
Những nguyên vật liệu phế thải tưởng như đã vứt đi, nhưng với sự cần mẫn, bàn tay khéo léo của các cô giáo đã thu lượm, góp nhặt, làm sạch để tạo nên những đồ dùng đồ chơi an toàn, không gây độc hại cho trẻ, giúp bảo vệ môi trường và phục vụ cho chính các hoạt động giáo dục đạt hiệu quả. Được biết, không chỉ tự làm, các giáo viên còn hướng dẫn trẻ cùng tham gia bằng cách gợi ý trẻ tự chọn màu sắc, cách làm ra các đồ dùng, đồ chơi gần gũi, quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của trẻ. Thông qua hoạt động này, các giáo viên đã giáo dục trẻ tình cảm yêu quý lao động, biết tiết kiệm và bảo vệ môi trường. Hoạt động này cũng giúp trẻ bộc lộ tư duy, trí tưởng tượng và khơi nguồn sáng tạo. Ví dụ:
- Làm con rối
+ Chuẩn bị: Muỗng, thìa canh, giấy trắng, sợi len, keo dán
+ Cách làm:Vẽ hoặc dán các nét mặt người, con vật lên trên cái muỗng, thìa canh. Dùng sợi len hoặc trang trí tóc cho các khuôn mặt. Có thể làm thêm quần áo, tay chân cho các bộ phận khác cho con rối.
- Làm xúc xắc
+ Chuẩn bị: Giấy màu, hồ dán, băng keo trong, viên sỏi, hột hạt, hộp nhựa (sữa, kem...) đã rửa sạch, phơi khô.
+ Cách làm: Cho sỏi vào trong hộp, dùng hồ hoặc băng keo trong dán 2 miệng hộp lại với nhau. Trang trí vỏ hộp bằng nhiều cách: vẽ hoặc dán giấy màu.
*Biện pháp 7: Tạo tâm thế thoải mái cho trẻ và đối xử công bằng với mọi trẻ:
Đối với trẻ thì ngoài gia đình thì cô giáo mầm non có thể xem như một “người mẹ thứ hai” và là “thần tượng” của trẻ để giúp trẻ có thêm tự tin, học hỏi được nhiều điều và giáo dục những kiến thức đầu tiên cho trẻ trong môi trường trường lớp mầm non.
Để trẻ cảm thấy vui vẻ, hứng thú đến trường, lớp thì thái độ của giáo viên đối với trẻ là điều vô cùng quan trọng. Cách ứng xử khéo léo của người giáo viên góp phần rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của trẻ. Giáo viên phải là một chuyên gia tâm lý để nắm bắt tâm sinh lý của trẻ để có phương pháp giáo dục đúng đắn và phù hợp với mọi trẻ.
Môi trường giáo dục phải thật sự thoải mái, thân thiện và người giáo viên có thể đóng vai trò là “người mẹ”, “người bạn” cùng chơi với trẻ một cách nhẹ nhàng, thoải mái .
Bên cạnh đó, giáo viên phải tôn trọng trẻ, mở rộng kiến thức của mỗi trẻ và tạo nhiều cơ hội cho trẻ tích cực hoạt động. Giáo viên cần xác định và đáp ứng sự hiểu biết, sở thích, và kỹ năng của trẻ em; đồng thời mở rộng việc học của mỗi đứa trẻ bằng cách cung cấp nhiều cách khác nhau cho trẻ học trong đó, bao gồm cả chơi và tương tác với các trẻ em khác.
*Biện pháp 8: Làm tốt công tác điều tra cập nhật số liệu, tuyên truyền vận động phụ huynh đưa trẻ 5 tuổi đến trường mầm non.
Đối với công tác tuyên truyền vận động phụ huynh đưa trẻ 5 tuổi đến trường mầm non, nếu chỉ một mình cô giáo đảm nhận chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy cần phải có sự hỗ trợ giúp đỡ của các cấp chính quyền và các ban, ngành có liên quan. Trước hết giáo viên cần làm tốt công tác phổ cập để nắm chắc số lượng trẻ trong độ tuổi ra lớp mẫu giáo, cụ thể là số trẻ có độ tuổi từ 3 đến 5, chú ý số trẻ 5 tuổi ở địa bàn đứng lớp để vận động được hết số lượng trẻ ra lớp không bị sót lại.
Hàng năm, giáo viên đều làm phiếu điều tra độ tuổi, điền đầy đủ thông tin như tên chủ hộ, dân tộc, quan hệ với chủ hộ, các cột năm sinh, tên trường trẻ đang học, tên nhóm lớp đã và đang học nhà trẻ, mẫu giáo, đang học trái tuyến, chưa đi học, đi học, bỏ học,số phiếu, mã hộ, sau khi điều tra xong phải kiểm tra có chữ ký của điều tra viên, của chủ hộ và của trưởng ấp, xác nhận địa phương.
Liên hệ với các ban, ngành như: thông tin văn hóa, Hội phụ nữ, ban bảo vệ chăm sóc trẻ em xã, trưởng ấp,… qua đó thông tin tuyên truyền sẽ đến với người dân và đạt kết quả khả quan hơn.
Ngoài ra, cô giáo còn tham gia các hoạt động ở địa phương như họp ấp, tham gia các lễ kỉ niệm của phụ nữ… tranh thủ tuyên truyền, vận động cho phụ huynh biết để phụ huynh tự giác đưa con em đến trường, lớp mẫu giáo để học.
*Biện pháp 9: Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để tu sửa cơ sở vật
chất, mua sắm trang thiết bị
Cơ sở vật chất rất quan trọng trong công tác thu hút trẻ đến lớp cũng như huy động trẻ ra lớp, cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của trẻ, các bậc phụ huynh sẽ tin tưởng hơn khi cho con tới trường vì vậy hàng năm, vào đầu năm học tôi đều tham mưu với nhà trường và xây dựng kế hoạch đầu tư tu sửa cơ sở vật chất ở lớp, mua sắm, bổ sung thêm trang thiết bị phục vụ cho trẻ hoạt động.
Việc trang trí trường lớp đẹp có ý nghĩa rất quan trọng đối với trẻ: Là môi trường để trẻ vui chơi và học tập theo hướng mở; Tạo cho trẻ hứng thú thích được đến trường, là cơ hội để trẻ được tiếp xúc với cái đẹp, từ đó phát triển tư duy, trí tưởng tượng phong phú cho trẻ, khơi gợi ở trẻ niềm say mê yêu thích hội họa, biết yêu quý bảo vệ cái hay, cái đẹp ở quanh mình. Mặt khác còn tạo được cảnh quan sư phạm nhà trường thêm đẹp và hấp dẫn, thân thiện với trẻ.
Hình 8. Trang trí lớp học đẹp, màu sắc rực rỡ, dạng mở nhằm thu hút trẻ.
2.5. Kết quả thực hiện:
Qua một năm bằng những biện pháp tích cực đã giúp trẻ tiến bộ một cách rõ rệt, trẻ tự tin, mạnh dạn hơn trước, rất hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập. Điều đó cũng đồng nghĩa với tỉ lệ chuyên cần và tỉ lệ bé ngoan được cải thiện và nâng cao được thể hiện qua kết quả như sau:
Kết quả |
Số trẻ |
Đầu năm học |
Cuối năm học |
- Trẻ chủ động muốn đi học |
16 |
43.75% |
100% |
- Trẻ có thể hiện sự vui thích được đến trường, lớp với cô giáo, đồ chơi, bạn bè. |
16 |
56.25% |
100% |
- Trẻ chủ động, mạnh dạn hát, kể chuyện, đọc thơ mà cô dạy ở lớp cho ba mẹ nghe. |
16 |
43.75% |
95% |
- Ba, mẹ động viên và khuyến khích trẻ đi học đều. |
16 |
56.25% |
95% |
- Trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp |
16 |
37,5% |
98% |
- Sử dụng lời nói mạch lạc, diễn cảm |
16 |
37,5% |
90% |
- Hiểu và truyền đạt thông tin bằng nhiều cách khác nhau |
16 |
43.75% |
90% |
- Tỷ lệ chuyên cần |
16 |
80-90% |
95-98% |
* Đối với phụ huynh:
Đã có cái nhìn tích cực hơn đối với việc đưa trẻ đến trường mầm non. Được phụ huynh hỗ trợ sách, truyện tranh cho lớp, kể chuyện cho trẻ nghe, trò chuyện nhiều hơn với trẻ ở nhà, đa số phụ huynh rất hài lòng khi về nhà trẻ mạnh dạn, tự tin kể chuyện sáng tạo, kể lại những câu chuyện, bài thơ trẻ được học ở lớp. Ngôn ngữ nói của trẻ cũng trở nên mạch lạc và chủ động giao tiếp hơn.
Phụ huynh đã quan tâm rất nhiều trong việc học của các cháu. Tích cực tham gia các hoạt động khi cần có sự phối hợp và thật sự yên tâm hơn khi gửi con em vào trường.
3. KẾT LUẬN
3.1. Bài học kinh nghiệm:
Qua một thời gian nghiên cứu và những kết quả có được trong năm học qua tôi đã có những kinh nghiệm quý báu xin được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp
- Lập kế hoạch khảo sát trẻ và gia đình.
- Đưa thơ ca, chuyện kể, đồng dao vào mọi lúc mọi nơi một cách hợp lý trong các hoạt động.
- Lựa chọn, sưu tầm những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao gần gũi với cuộc sống trẻ.
- Tổ chức trò chơi lồng ghép với thơ ca, đồng dao, hò vè, chuyện kể giúp trẻ đọc diễn cảm, đúng nhịp điệu của những câu chuyện, bài thơ, đồng dao được học.
- Giáo viên cần có kinh nghiệm, luôn luôn học hỏi, lắng nghe, nắm bắt tâm lí trẻ, yêu nghề, mến trẻ, tạo không khí gần gũi với trẻ, luôn tạo tâm thế thỏa mái, tự nhiên không gò bó, ép buộc trẻ khi tham gia hoạt động.
- Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động phụ huynh đóng góp nguyên vật liệu làm đồ dùng, đồ chơi
- Tổ chức các hoạt động đóng kịch theo nhóm (tổ) vào cuối chủ điểm lớn có thi
đua, khen thưởng để động viên trẻ.
- Làm đồ dùng mở như truyện tranh và chữ, cắt dán, vẽ theo câu chuyện đã được học.
- Chú ý những trẻ nhút nhát, thiếu tự tin, chưa mạnh dạn được giao tiếp nhiều trong các hoạt động.
- Kết hợp phụ huynh tham gia vào các lễ hội lớn của trường (xem trẻ diễn kịch hoặc nhập vai cùng trẻ), ủng hộ truyện tranh và nguyên vật liệu thế thải.
Để giúp trẻ hứng thú đi học và hình thành thói quen tốt trong học tập, bản thân tôi đã không ngừng học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng thích hợp những biện pháp tạo cho trẻ phát triển tốt trong mọi lĩnh vực. Góp phần đào tạo cho thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện. Như lời Bác Hồ đã dạy : “Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt.”
3.2. Khả năng ứng dụng:
Ứng dụng cho tất cả trẻ trong độ tuổi mẫu giáo. Đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi vì trẻ ở lứa tuổi này cần trang bị tốt về tâm lý, thái độ học tập cũng như thói quen, nề nếp để trẻ có hành trang tốt bước vào môi trường phổ thông.
Tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ rèn luyện cơ thể thông qua các trò chơi, hoạt động tập thể, tập thể dục thể thao.Thường xuyên sưu tầm sách báo, làm nhiều đồ dùng đồ chơi mới lạ, tranh ảnh đẹp để phục vụ cho các hoạt động.
Bản thân giáo viên chúng tôi sẽ luôn cố gắng và cố gắng hơn nữa trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ, tìm hiểu, học hỏi và luôn trao dồi kinh nghiệm của người đi trước, của các chị đồng nghiệp them kiến thức, phương pháp dạy và học để giúp trẻ học tốt.
Sáng tạo làm thêm đồ dùng đồ chơi, tổ chức các hình thức vận động, phong phú các trò chơi nhằm giúp trẻ phát triển thể lực một cách tốt nhất, tạo mọi điều kiện để trẻ hoạt động được tốt hơn.
Với tâm tận tụy với nghề nghiệp, hết lòng yêu nghề, mến trẻ thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu” và theo định hướng của bộ giáo dục và đào tạo về xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Kết hợp với kinh nghiệm gắn bó với nghề tôi đã đưa ra những biện pháp giúp duy trì sĩ số trẻ 5-6 tuổi. Rất mong được sự góp ý, nhận xét chân tình từ lãnh đạo cấp trên và đồng nghiệp để bài viết của mình được hoàn thiện hơn.
Ngày 03 tháng 02 năm 2017
Người viết
Nguyễn Thị Huỳnh Lê
* Nhận xét đánh giá của hội đồng chấm, xét SKKN cấp trường
...............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Định An, ngày tháng năm 2017
TM.HĐCSKKN
Hieäu tröôûng
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Thực đơn
Văn bản mới
Ngày ban hành: 02/04/2024. Trích yếu: Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Dương thông báo công khai danh sách các trung tâm ngoại ngữ, tin học, cơ sở giáo dục kỹ năng sống trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã được cấp phép theo thẩm quyền.
Ngày ban hành: 02/04/2024
Ngày ban hành: 12/06/2024. Trích yếu: Công nhận BDTX THCS
Ngày ban hành: 12/06/2024
Ngày ban hành: 03/06/2024. Trích yếu: Tổ chức giữ trẻ ...
Ngày ban hành: 03/06/2024
Ngày ban hành: 27/05/2024. Trích yếu: Ngày thứ 7 văn minh
Ngày ban hành: 27/05/2024
Ngày ban hành: 27/05/2024. Trích yếu: Hướng dẫn xét TĐKT
Ngày ban hành: 27/05/2024
Ngày ban hành: 23/05/2024. Trích yếu: Triển khai chương trình GD kỹ năng sống
Ngày ban hành: 23/05/2024
Video clips
Album ảnh
Thăm dò ý kiến